Vâng lời
vua Đường, Cao Biền đến nước ta bỏ công đi khắp nơi, xem xét núi non, rừng biển,
sông hồ, chỗ nào địa thế tốt, có khí địa linh, thì đều yểm cả.
Phép phong thủy
phân biệt hình thế của đất làm năm loại: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.
Tùy theo thế đất và
hình dáng của cuộc đất (giống con vật gì) để theo đó đặt tên, tiên đoán lành dữ
cho những ai sử dụng cuộc đất ấy, như: lục long tranh châu, phượng hoàng ẩm
thủy, hổ trục quần dương, hoặc quần tiên hội ẩm (được xem là những cuộc đất
quý).
Cao Biền
Thực hư Cao Biền trấn yểm thành Đại La
Theo tư liệu lịch
sử và phong thủy, Cao Biền khi sang xâm lấn nước ta đã tiến chiếm thành Đại La
và cho đắp lớn thành này cao đến 2 trượng 6 thước, chu vi hơn 1982 trượng, trên
thành xây 55 vọng gác, với nhiều điểm phòng vệ quân sự.
Để làm rào chắn cho
thành Đại La, Cao Biền đã tập trung các hộ ở vây quanh với bốn vạn căn nhà.
Là người giỏi về
thuật phong thủy, xem địa lý, đoán cát hung, nên Cao Biền đã dò xét rất kỹ vị
trí để xây thành Đại La (mà sau này vua Lý Thái Tổ khi dời đô về Thăng Long đã
cho xây mới lại) và dò tìm đầu mối long mạch nước ta.
Trận Yểm bùa sông Tô Lịch
Nhắc đến vua Lý
Thái Tổ (tức Lý Công Uẩn), nhắc đến thành Đại La và kinh đô Thăng Long, vì đều
liên quan đến việc Cao Biền sử dụng những thuật lạ của phong thủy để trấn yểm
và tiêu hủy khí tượng đế vương ở nước ta thời ấy theo lệnh của vua Đường Ý tông
(860 – 873).Tài liệu ghi, khi
Đường Ý tông quyết định cử Cao Biền sang nước ta, đã ngầm bảo: “Trẫm nghe An
Nam có nhiều ngôi đất thiên tử, ngươi tinh thâm về địa lý, nên hết sức yểm đi
và vẽ hình thế đất ấy đem về cho trẫm xem”.Vâng lời vua Đường, Cao Biền đến nước ta
bỏ công đi khắp nơi, xem xét núi non, rừng biển, sông hồ, chỗ nào địa thế tốt,
có khí địa linh, thì đều yểm cả.Riêng núi Tản Viên
là Cao Biền không dám đụng tới vì cho rằng đó là chỗ thiêng liêng của chư thần
thường ngự, không thể yểm được.Trong những nơi mà
Biền nhắm đến có một điểm khá quan trọng, đó là làng Cổ Pháp – nơi sẽ sinh ra
bậc đế vương của trời Nam.Vì thế, sau nhiều
ngày chú tâm xem xét về cuộc đất toàn vùng, Cao Biền cùng các thầy pháp và thầy
địa lý của Trung Quốc đã ra tay “cắt đứt long mạch” bằng cách đục đứt sông Điềm
và 19 điểm ở Phù Chấn để yểm.
La Quý nối chỗ đứt long mạch
Nhưng mưu thâm độc
của vua Đường và Cao Biền trong việc phá hủy thế phong thủy và làm tan khí
tượng đế vương ở nước ta đã bị một thiền sư thời ấy là ngài La Quý phá tan.Ngài La Quý là
trưởng lão tu ở chùa Song Lâm, thuở nhỏ du phương tham vấn khắp nơi, sau đến
gặp pháp hội của thiền sư Thông Thiện liền khai ngộ.Khi đắc pháp, ngài
La Quý tùy phương diễn hóa, nói ra lời nào đều là lời sấm truyền. Ngài rất
thông tuệ, nhìn xuyên sông núi, biết rõ nguồn gốc phong thủy, biết quá khứ và
tiên đoán được tương lai.Trước khi mất, vào
năm 85 tuổi (năm 936), ngài gọi đệ tử truyền pháp là Thiền Ông đến căn dặn:“Ngày trước, Cao
Biền đã xây thành bên sông Tô Lịch, dùng phép phong thủy, biết vùng đất Cổ Pháp
của ta có khí tượng đế vương, nên đã nhẫn tâm đào đứt sông Điềm và khuấy động
19 chỗ trấn yểm ở Phù Chẩn.
Nay ta đã chủ trì
lắp lại những chỗ bị đào đứt được lành lặn như xưa. Trước khi ta mất, ta có
trồng tại chùa Châu Minh một cây bông gạo.Cây bông gạo này
không phải là cây bông gạo bình thường, mà là vật để trấn an và nối liền những
chỗ đứt trong long mạch, mục đích để đời sau sẽ có một vị hoàng đế ra đời và vị
này sẽ phò dựng chính pháp của chư Phật”.Vị hoàng đế mà ngài
La Quý báo trước là Lý Công Uẩn. Lý Công Uẩn mồ côi từ nhỏ, được sư Khánh Vân
đem về chùa nuôi, lớn lên Lý Công Uẩn được thiền sư Vạn Hạnh nuôi dạy và sau
này lên ngôi tức vua Lý Thái Tổ, mở ra thời đại hộ pháp hưng thịnh trong lịch
sử Việt Nam...
Như vậy, thuật
phong thủy với khí tượng đế vương của các vùng đất đã liên quan nhiều đến lịch
sử Việt Nam từ xa xưa.Đến đời Lê, có ngài
Nguyễn Đức Huyên sinh tại làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh, là người
lặn lội học khoa địa lý phong thủy tận nơi khai sáng của khoa này trên đất
Trung Hoa và cũng là người Việt Nam đầu tiên viết sách địa lý lưu truyền đến
nay.Ngài là danh nhân
có tên gọi quen thuộc không những trong dân gian mà cả giới nghiên cứu nữa: Tả
Ao.Tả Ao đã phân tích,
nêu rõ hình các cuộc đất kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, cũng như việc tìm long mạch
ra sao.
Xin nêu ra đây đoạn nhỏ trong sách “Tả Ao địa lý toàn thư” do Cao Trung
biên dịch, đại ý nêu hai mạch:Mạch dương cơ và
Mạch âm phần. Mạch dương cơ nếu nhỏ thì dùng làm nhà, nếu lớn hơn làm doanh
trại, hoặc rộng và tốt có thể dùng làm thị trấn, xây kinh đô. Còn Mạch âm phần
dùng chôn cất.Đại cương là vậy,
về chi tiết còn có nhiều loại mạch khác, như Mạch mã tích tức mạch chạy như vết
chân ngựa, lúc cạn lúc sâu; Mạch hạc tất tức mạch ở giữa nhỏ, hai đầu to ra
dần, như gối của con hạc; Mạch phong yếu tức mạch nhỏ nhắn, phình ra to dần như
lưng con ong;Mạch qua đằng tức
mạch không chạy thẳng mà ngoằn ngoèo như các thân cây bí cây bầu, có khả năng
kết được bên trái hoặc bên phải đường đi của mạch nên được xem là loại mạch
quý.
Đất kết có hai
loại: một loại dùng chôn xương người chết và một loại để người sống ở đều tốt.Riêng đất để người
sống ở, sách Tả Ao địa lý toàn thư đã đề cập đến đất dương cơ liên quan tới
lịch sử nước ta:Trừ nhà Hùng Vương
được đất quá lớn ra, thì sau đó, nhà Đinh và tiền Lê trở về trước, những triều
đại thịnh trị thật ngắn ngủi, không được tới ba đời, nên quốc sư Vạn Hạnh phải
tìm một đại địa khác làm kinh đô.Đó là Thăng Long
hay Hà Nội. Lý Công Uẩn nghe theo, dời kinh đô về Thăng Long nên nhà Lý làm vua
được tám đời; và sau đó nhà Trần và hậu Lê (Lê Lợi) cũng nhờ có đại địa đó làm
kinh đô, nên bền vững lâu dài hơn”.
Các bạn có thể đọc thêm các bài viết hay khác ở dưới.
Nguồn: DU TRẦN